Hình ảnh Thi tìm hiểu về: Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 1982 của Chi đội Nguyễn Văn Cừ - Lớp 8/4
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU : “CÔNG ƯỚC LIÊN HIỆP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982”
LỚP 8/4 – CHI ĐỘI
NGUYỄN VĂN CỪ
Người trình bày: Trần
Bích Anh
Kính thưa quý
Thầy cô cùng các bạn, tham gia hội thi Tìm hiểu về chủ quyền của Tổ quốc, Chi đội Nguyễn Văn Cừ - Lớp 8/4
chúng em xin trình bày nội dung Tìm hiểu về: Công ước Liên hiệp quốc về Luật
biển năm 1982; Kính mời quý Thầy cô cùng các bạn lắng nghe!
Sau hơn 4 năm chuẩn bị và 9
năm đàm phán, ngày 10/12/1982, Công ước
Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982), được
107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Vịnh Montego, nước Cộng hòa Jamaica,
đánh dấu thành công của Hội nghị LHQ về
Luật biển lần thứ 3, với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức
quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ, cùng xây dựng nên một Công
ước mới về Luật biển, được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển,
cùng chấp nhận.
Có hiệu lực từ ngày 16/11/1994, Công
ước Luật biển 1982 là một văn kiện pháp
lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn
1000 quy phạm pháp luật, đã đáp
ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc
tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển. ( Hình 1 )
Hình 1 : Sách Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển 1982
Công ước Luật biển 1982
thực sự là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế bởi Công ước không
chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hoá
các quy định mang tính tập quán. Công ước thể hiện sự thoả hiệp mang tính toàn
cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước công
nghiệp phát triển hay là nước đang phát triển
Tính đến ngày 3/6/2011,
đã có 162 nước phê chuẩn và tham gia Công ước luật biển 1982.
Một số nội dung quan trọng được quy định trong
Công ước, như sau
1.Quốc gia ven biển được thực
hiện đầy đủ chủ quyên của mình đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng
không quá 12 hải lí (1 hải
l ý = 1852m). Tuy
vậy, tàu thuyền nước ngoài được phép lưu thông trong vùng lãnh hải. Tàu thuyền
và máy bay được phép đi qua các dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc
tế.
Hình 2 : Phân định
vùng biển theo Công ước Luật biển năm 1982
2.Ranh giới
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định dựa trên các quy
tắc áp dụng cho lãnh thổ đất liền. Quốc gia có biên giới với eo biển có thể điều
tiết lưu thông hàng hải và các khía cạnh khác liên quan đến đi lại, lưu thông.
3.Quốc gia quần đảo, được tạo thành bởi các đảo hoặc các nhóm
đảo, sẽ
có chủ quyền đối với những vùng biển nằm trong các đường thẳng được vẽ bởi các
điểm xa nhất của các đảo, vùng nước bên trong các đảo được gọi là vùng nước
quần đảo ; các quốc gia này có thể thiết lập các đường đi lại cho tàu thuyền và
hàng không, trong đó các quốc gia khác có thể được hưởng quyền qua lại các quần
đảo bằng các tuyến đường biển đã định.
4. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với vùng đặc
quyền kinh tế rộng tối đa 200 hải lý, đối với tài
nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế, và thực hiện quyền tài phán đối
với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác
có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không, tự do đặt dây cáp ngầm và đường
ống.
5. Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền
tham gia trên cơ sở công bằng trong việc khai thác một phần thích hợp trong số
phần dư dôi của các tài nguyên sống trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển trong cùng khu vực hoặc
tiểu khu vực.
6. Quốc gia ven biển có quyền
chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy biển của quốc gia) trong việc thăm
dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. Thềm lục địa có
thể kéo dài ít nhất là 200 hải lý từ bờ biển, và có thể kéo dài không quá
350 hải lý …
7. Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về
hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách
nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn
các tài nguyên sống trên biển.
8. Các quốc gia có chung biên giới với biển kín
hoặc nửa kín cần hợp tác với nhau trong
việc quản lý tài nguyên sống, có chính sách và hoạt động về môi trường cũng như
nghiên cứu khoa học. Các quốc gia không có biển có quyền tiếp cận với biển
và được tự do quá cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển. Các quốc
gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiểm môi trường biển và phải chịu trách
nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình để
kiềm chế sự ô nhiễm đó.
9. Tất cả các nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển có
trách nhiệm đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi việc nghiên cứu được
tiến hành vì mục đích hoà bình… Các quốc gia cam kết tăng cường phát triển và
chuyển giao kỹ thuật biển trong những điều kiện “ công bằng và hợp lý” có tính
đến đầy đủ những lợi ích hợp pháp.
10. Các quốc gia thành viên phải giải quyết các tranh chấp
liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước bằng biện pháp hoà bình . Các tranh chấp cần được
trình lên Toà án quốc tế về luật biển, trình lên Toà án công lý quốc tế hoặc
trọng tài. Toà án có quyền tài phán riêng biệt đối với những tranh chấp liên
quan đến khai thác ở đáy biển.
Kính thưa quý Thầy cô cùng các bạn !
Sau 30 năm kể từ khi ra đời, Công ước Luật
biển 1982 có vị trí pháp lý rất quan trọng trong đời sống luật pháp quốc tế.
Tại Hội nghị lần thứ 22, các quốc gia thành viên của Công ước, tổ chức tại
NewYork vào tháng 6/2012, một lần nữa Công ước được khẳng định là thành
tựu của nhân loại bởi những quy định của nó là kết quả của sự hợp tác - đấu
tranh - xây dựng nhiều năm giữa các quốc gia trên thế giới với các chế độ chính
trị, trình độ phát triển kinh tế, quan điểm luật pháp khác nhau; là sự thoả
hiệp giữa các quốc gia vì một nhận thức chung đối với tầm quan trọng sống còn
của biển và đại dương đối với sự phát triển của nhân loại.
Tham gia Công ước Luật biển
1982, Việt Nam, quốc gia ven biển, được thừa nhận có vùng lãnh hải rộng 12 hải
lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200
hải lý và có thể mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích các vùng
biển và thềm lục địa mà nước ta được hưởng theo quy định của Công ước, khoảng
gần một triệu Km2, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền
Hình 3:
Vùng biển và thềm lục địa của nước ta được hưởng theo quy định của Công ước
Luật biển 1982
Việt Nam nhận thức rằng: trong việc sử dụng
biển và áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982 việc nảy sinh các bất đồng và tranh
chấp giữa các quốc gia là điều khó tránh khỏi. Cách thức duy nhất để giải quyết
những sự khác biệt và các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến giải thích
và thực hiện các quy định của Công ước chính là sử dụng các biện pháp hoà bình
theo quy định của luật pháp quốc tế. Giải quyết các tranh chấp biển bằng các
biện pháp hoà bình vừa là nghĩa vụ của các thành viên Liên hợp quốc theo quy
định của Hiến chương LHQ và vừa là nghĩa vụ theo Công ước Luật Biển năm 1982.
Nghị quyết của Quốc hội nước ta
về việc phê chuẩn Công ước Luật Biển năm 1982 tuyên bố rõ: “Nhà nước Việt Nam
chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến Biển Đông bằng các biện pháp
hoà bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật
pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, tôn
trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven Biển Đông
đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm
phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hoà bình,
ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm
tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực”.
Trong cuộc đấu tranh bảo
vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh
những những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được
xác lập liên tục từ lâu đời đối với hai quần đảo này, Công ước là công cụ pháp
lý để phản bác những yêu sách phi lý, ngang ngược của Trung Quốc đối với cái
gọi là “đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích
Biển Đông, vốn là vùng biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có
Việt Nam.
Hình 4:Ranh giới “ Đường lưỡi bò” ( màu đỏ ) phi lý trên biên
Đông của Trung Quốc đã bị nhiều quốc gia phản đối
Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hành động theo chủ
trương tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982; đồng
thời yêu cầu kêu gọi các quốc gia khác tuân thủ nghĩa vụ này. Lập trường đó của
Nhà nước Việt Nam đang nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
Các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa, và nhiều vùng biển đảo khác của Việt Nam là thuộc chủ quyền thiêng
liêng của tổ quốc Việt Nam. Mọi âm mưu và hành động xâm lấn chủ quyền biển đảo
Việt Nam của các thế lực bên ngoài là hành động xâm lược, là vi phạm chủ quyền
lãnh thổ quốc gia, vi phạm luật pháp quốc tế, nhất là vi
phạm Công ước Luật biển năm 1982.
Tìm hiểu về chủ quyền Tổ
quốc Việt Nam, mỗi học sinh chúng ta phải ra sức học tập thật tốt, tìm
hiểu, nghiên cứu lịch sử Việt Nam
thật giỏi và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ và giữ vững chủ quyền vùng biển vùng
trời tươi đẹp của chúng ta!
Hình 5 : Tuổi trẻ Việt Nam kiên quyết bảo vệ và giữ vững chủ quyền thiêng liêng biển đảo của tổ quốc
Tổ quốc là trên hết ! Tuổi
trẻ Việt Nam sẵn
sàng bảo vệ và giữ vững chủ quyền thiêng liêng biển đảo của tổ quốc thân yêu!
Để kết thúc bài thuyết trình, em xin mượn một
đoạn thơ trong bài thơ: “ Tổ quốc nhìn từ biển ” của nhà
thơ Nguyễn Việt Chiến, mới thầy cô
và các bạn lắng nghe !
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn….
…Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi
Bài dự thi của em đến
đây là kết thúc! Em xin cảm ơn quý thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn đã chú ý
lắng nghe! Em xin kính chúc quí thầy cô và các bạn dồi dào sức khoẻ, chúc hội
thi thành công tốt đẹp!